Tận dụng cơ hội dữ liệu số y tế: Đừng để thách thức đánh mất thời cơ
Hội thảo "Chuyển đổi số và quản trị dữ liệu trong lĩnh vực y tế" ngày 18/11 đã đề cập một nội dung quan trọng là làm thế nào để quản trị hiệu quả nguồn dữ liệu số y tế. Mặc dù, đây không phải là vấn đề mới nhưng theo ghi nhận, kết quả thu được đến nay vẫn chưa như kỳ vọng, mong đợi.
- Y tế số 4.0 tạo hệ thống xuyên suốt từ trung ương đến địa phương phòng chống COVID-19
- Bệnh viện thông minh - Mục tiêu trọng tâm của nền Y tế số
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại này là do thiếu đồng bộ về cơ chế, chính sách, cơ hội tiếp cận, chưa có quy định hành lang pháp lý, vi phạm đến quyền riêng tư…
Do đó, để vượt qua các hạn chế, trở ngại, vì mục tiêu hướng đến bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, người bệnh trên nền tảng dữ liệu số, môi trường mạng, không còn cách nào khác ngành Y tế phải cùng với các cấp, ngành, đơn vị chung sức, đồng lòng tìm những giải pháp số y tế hiệu quả.
Vai trò quan trọng của dữ liệu số y tế
Dữ liệu số y tế là hệ thống thông tin về sức khỏe (thông số bệnh tật, ghi chú lâm sàng, hình ảnh chẩn đoán, dữ liệu dịch tễ học và hành vi người bệnh...) được lưu trữ trực tuyến với sự trợ giúp của một ứng dụng hoặc dịch vụ. Phương pháp này cho phép cá nhân đó truy cập thông tin của mình ở bất cứ đâu bằng máy tính hoặc thiết bị di động. Đồng thời, công cụ này cũng giúp cá nhân, bệnh nhân chia sẻ thông tin của bản thân với bác sĩ, gia đình hoặc người liên lạc khẩn cấp.
Khi có được một hệ thống dữ liệu số y tế chuẩn, toàn bộ nguồn dữ liệu khổng lồ từ các bệnh viện, trung tâm xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, trạm y tế, nhà thuốc, các cơ sở y tế tư nhân... sẽ dễ dàng được xâu chuỗi và chuẩn hóa về một nguồn thông tin.
Cũng nhờ nguồn dữ liệu này, ngành Y tế, các cơ quan quản lý nhà nước có thể đưa ra được mô hình cảnh báo dịch bệnh, quản trị chi tiêu, giám sát những tình hình bất thường, cũng như chủ động triển khai các dịch vụ mới phục vụ người dân. Các bác sĩ có thể truy cập để theo dõi toàn bộ hồ sơ bệnh án của bệnh nhân từ tuyến dưới, giúp đưa ra y lệnh chính xác hơn. Đồng thời, người dân cũng được hưởng dịch vụ với chất lượng cao hơn và trải nghiệm tốt hơn, tiết kiệm được thời gian và chi phí.
Còn nhớ, tại một hội nghị về chính phủ điện tử, chuyển đổi số trong ngành Y tế diễn ra vào cuối tháng 9/2020, Trưởng đơn vị kinh doanh Y tế, Tổng công ty giải pháp doanh nghiệp (DN) Viettel, ông Khổng Văn Đông từng nhấn mạnh về tầm quan trọng của dữ liệu số y tế: Chưa bao giờ dữ liệu lại quan trọng như thế đối với ngành Y tế. Người Việt mình đang gặp những bệnh gì? Ở độ tuổi nào? Phương pháp điều trị nên thế nào?... Trả lời được cho những câu hỏi trên, không còn cách nào khác là chúng ta phải tích cực đẩy nhanh việc thực hiện hoàn thiện, bảo vệ dữ liệu số y tế đó, tiến tới kết nối, sử dụng để nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh.
"Tiến lên một bước nữa, số hóa giúp ngành Y có thể dễ dàng tra cứu hồ sơ bệnh nhân, lịch sử mắc bệnh để nhanh chóng có biện pháp điều trị tốt nhất. Có công cụ sẽ tầm soát được nhiều bệnh nguy hiểm, đỡ biến chứng, giảm nguy cơ tử vong, hỗ trợ chẩn đoán. Các máy móc hiện đại nhất trong điều trị bệnh đều lưu trữ dữ liệu về bệnh nhân, đây là IoT (Internet vạn vật). Còn blockchain sẽ giải quyết được vấn đề về minh bạch dữ liệu, đảm bảo hồ sơ bệnh án là chính xác, không bị sửa lại", ông Đông nhấn mạnh.
Hiện nay, dữ liệu số y tế được tạo ra bởi quá trình chuyển đổi số trong ngành, và được phân thành ba khu vực nhóm dữ liệu chính gồm: Thông tin y tế của người bệnh được tạo ra từ quá trình khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế; Thông tin thống kê hành chính (bao gồm cả dữ liệu về y tế dự phòng, các bệnh truyền nhiễm); Nhóm dữ liệu về sức khỏe cá nhân được thu thập bởi các DN công nghệ thông qua các thiết bị hoặc ứng dụng được cài đặt trên thiết bị, sử dụng trực tiếp bởi người dùng.
Việt Nam cần có một chiến lược toàn diện và khung pháp lý rõ ràng về dữ liệu y tế số
Tuy nhiên, một thực trạng vẫn đang tồn tại trong hệ sinh thái dữ liệu đó là chưa phát huy được hiệu quả kết nối, chia sẻ, giữa các khu vực. Theo báo cáo Y tế, tính đến tháng 11/2020, chỉ có nhóm thông tin y tế của người bệnh - là nhóm dữ liệu lớn nhất và đã được đưa vào khai thác có hiệu quả, còn hai nhóm còn lại chưa phát huy hiệu quả cao.
Đơn cử như ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, cơ quan nắm dữ liệu lớn nhất, ứng dụng chủ yếu trong giám sát chi trả, chống gian lận chi trả bảo hiểm. Nhưng hiện chưa có một cơ chế nào để kết nối, chia sẻ và khai thác được dữ liệu khi vượt ra ngoài khuôn khổ của ngành.
Với thực trạng này, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bỏ lỡ cơ hội quý báu để khai thác giá trị từ chuyển đổi số y tế của một thị trường nội địa có quy mô xấp xỉ 23 tỷ USD do thiếu một chiến lược toàn diện và khung pháp lý rõ ràng về dữ liệu y tế số. Nếu vẫn đi theo con đường hiện nay, lợi ích của chuyển đổi số y tế dù vẫn lớn lao nhưng chỉ dừng lại trong giới hạn của cải cách thủ tục hành chính, giấy tờ.
Nếu cơ hội bị bỏ lỡ thì điều đó là đáng tiếc, bởi xét trong bối cảnh của một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu dân và đang bước vào giai đoạn già hóa với gánh nặng chăm sóc y tế ngày càng khổng lồ thì việc gấp rút xây dựng chiến lược quốc gia về dữ liệu số y tế, đồng thời ban hành một đạo luật về dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư là điều quan trọng hơn hết vào lúc này.
Phát triển số Y tế phải trên con đường dữ liệu
Cũng trong khuôn khổ hội thảo này, nhiều đại biểu, các chuyên gia, nhà quản lý, DN CNTT đã đưa ra những hạn chế, khó khăn, khuyến nghị, rủi ro về việc thực hiện, triển khai sử dụng, khai thác nguồn dữ liệu số y tế.
Theo ông Nguyễn Đức Ninh, Giám đốc Công ty cổ phần Giải pháp công nghệ NIDI, y tế nói chung vẫn còn hạn chế về hạ tầng công nghệ, y tế tuyến cơ sở thôn, bản có khi còn chưa có mạng ổn định để kết nối.
Để quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ hơn với Ngành Y tế, ông Ninh cho rằng y tế cần nhiều hơn các chương trình hành động cụ thể, các thông tư, hướng dẫn, dự án, kinh phí… đồng thời cần phải có các cán bộ chuyên trách về CNTT có năng lực, xây dựng chính sách ưu tiên nhân sự, phân trách nhiệm, vai trò cụ thể cho người lãnh đạo.
Trên quan điểm cũng là đơn vị sát cánh cùng ngành y tế nhiều năm, Giám đốc Trung tâm Giải pháp điện tử VNPT, ông Trần Anh cho biết: Y tế muốn chuyển đổi số phát triển phải thông qua con đường dữ liệu, VNPT cung cấp công cụ cho việc thực hiện số hóa ngành y tế và luôn cam kết đảm bảo chất lượng, an toàn dữ liệu.
Cũng theo ông Trần Anh, ngành Y tế cần sớm, nhanh việc chuẩn hóa dữ liệu để chia sẻ thông tin, cần các định hướng từ Chính phủ, cần có các mã định danh công dân… Đây sẽ là những căn cứ, sở cứ quan trọng để thực hiện hiệu quả việc số hóa dữ liệu ngành Y tế.
"Mặc dù chúng ta đã có luật an ninh mạng, tuy nhiên, vẫn chưa có những quy định rõ ràng về việc chia sẻ dữ liệu cá nhân. Nếu chúng ta đợi luật ban hành có khi sẽ bị chậm, lỡ cơ hội. Nên chăng vào lúc này cần có các hướng dẫn, quy định tạm thời, các văn bản dưới luật, để tận dụng lợi thế thực hiện việc chia sẻ dữ liệu nhanh hơn, an toàn hơn", Giám đốc Trần Anh nhấn mạnh.
Với vai trò là đại diện cơ quan quản lý, ông Nguyễn Trường Nam, Phó Cục trưởng Cục CNTT, Bộ Y tế ghi nhận, lắng nghe những đóng góp các đại biểu, đồng thời cho biết thêm: Bộ Y tế luôn tích cực, thực hiện, tiếp cận những hướng đi đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ trong việc thực hiện chuyển đổi số của ngành, quốc gia, đồng thời mong muốn nhận được những chia sẻ, kinh nghiệm, tư vấn các đơn vị trong nước, nước ngoài nhằm đưa ra các giải pháp, chính sách đúng, đảm bảo an toàn, hiệu quả việc chia sẻ dữ liệu số y tế.
Phó Cục trưởng Nam cho biết, thời gian qua, Bộ Y tế ban hành bộ tiêu chí trong bệnh viện, giúp các đơn vị y tế xác định được quy mô, mô hình để đầu tư CNTT phù hợp.
Nói về các nguyên nhân, khó khăn, hạn chế, Phó Cục trưởng Nam cho biết, Bộ Y tế là cơ quan chăm sóc khám chữa bệnh, là ngành đặc thù, đặc biệt khi đưa vào ứng dụng CNTT đây là một lĩnh vực, mảng riêng nên không tránh khỏi những hạn chế, bỡ ngỡ.
Bên cạnh đó là vấn đề cơ chế. Một cơ quan y tế khi muốn tuyển dụng thêm một cán bộ CNTT sẽ ảnh hưởng đến một cán bộ y tế vì liên quan chỉ tiêu biên chế. Đây chính là câu chuyện "trưng dụng" đang tồn tại.
Chia sẻ về vấn đề ứng dụng CNTT đối với ngành, Phó Cục trưởng Nam cho biết thời gian qua Bộ Y tế tích cực tăng cường, triển khai các văn bản chính sách, hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt các vấn đề an toàn thông tin (ATTT), các bộ tiêu chí trong bệnh viện, giúp các đơn vị y tế xác định được quy mô, mô hình để đầu tư CNTT phù hợp.
Bộ Y tế đã phối hợp các ơn vị DN CNTT triển khai chuyển đổi số trạm y tế tại các địa phương. Đây là tuyến đầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, được áp dụng đăng ký trên phần mềm duy nhất để thu thập dữ liệu, thông tin. Đây cũng là mô hình phần mềm áp dụng sau này cho các tuyến quận, huyện, tỉnh, thành phố.
Tuy nhiên, việc áp dụng này đối với tuyến trên phải được thực hiện dần dần, từng phần, theo lộ trình, bởi lẽ khi áp dụng các ứng dụng CNTT nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy trình nghiệp vụ khám, chữa bệnh tại các bệnh viện, mà hoạt động đó diễn ra hàng ngày, hàng giờ liên tục.
Đặc biệt, đối với vấn đề quản lý dữ liệu số y tế, Bộ Y tế chủ yếu tập trung vào vấn đề dân số, khám chữa bệnh, tiêm chủng, tai nạn thương tích, sức khỏe sinh sản, HIV/AIDS, môi trường,… điển hình là việc triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử, bệnh án điện tử.
"Bệnh án điện tử của người dân khi thực hiện sẽ được bảo vệ ở bệnh viện và các cơ sở y tế, thông tin của mỗi lượt điều trị đều được cập đầy đủ. Hiện, Bộ Y tế đang thiết lập hành lang pháp lý để đảm bảo tính bảo mật của thông tin cho người dân cùng với những quy định trong Luật ATTT mạng", Phó Cục trưởng Nam nhấn mạnh.
Theo Thông tin và Truyền thông
Tối thiểu 10 chữ Tiếng việt có dấu Không chứa liên kết
Gửi bình luận