Ảnh minh họa: Biotechscope.
Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, nhóm tác giả đã xem xét các nguy cơ đối với những trường hợp nhiễm COVID-19 nghiêm trọng và truy tìm sự tiến triển của bệnh theo thời gian. Theo đó, các tác giả đã xây dựng mô hình học máy để dự đoán bệnh nhân nhập viện sẽ phát triển căn bệnh nghiêm trọng như nào dựa trên thông tin thu thập được vào ngày đầu tiên họ nhập viện.
Sử dụng cơ sở dữ liệu tập trung, được gọi là dữ liệu COVID quốc gia, hay còn được gọi với tên N3C. Điều này có nghĩa, nhóm nghiên cứu có thể đưa hàng trăm nghìn hồ sơ của bệnh nhân vào phân tích của mình. Phân tích hướng tới việc điều trị COVID-19 đã thay đổi trong giai đoạn 2020, các kết quả trong việc thử nghiệm các phương pháp điều trị mới và kinh nghiệm đạt được. Dựa trên phân tích tỷ lệ bệnh nhân được điều trị bằng thuốc chống sốt rét hydroxychloroquine, theo gợi ý của cựu Tổng thống Donald Trump được chứng minh là không hiệu quả, giảm xuống gần 0 vào tháng 5/2020. Đối với việc sử dụng thuốc steroid dexamethasone trong điều trị, các nghiên cứu cho thấy đã tăng lên trong tháng 6 và nó có thể cải thiện tỷ lệ sống sót. Cụ thể, trong tháng 9 và tháng 10 năm 2020, số người nhập viện do nhiễm COVID-19 bị tử vong đã giảm xuống dưới 9% so với 16% số người tử vong trong tháng 3 và tháng 4 năm 2020.
Ảnh minh họa: The Verge.
Đối với những người có nhịp tim, nhịp thở và nhiệt độ cao khi đến bệnh viện cần can thiệp đặt ống nội khí quản tỷ lệ tử vong cao hơn. Ngoài ra, các bệnh nhân có tế bào bạch cầu bất thường, viêm nhiễm, độ axit trong máu và chức năng thận bị ảnh hưởng cũng là những nguyên nhân liên quan đến các trường hợp bệnh nghiêm trọng. Nhóm nghiên cứu đã xây dựng các mô hình học máy sử dụng những điểm dữ liệu đó và các điểm dữ liệu khác mà có thể dự đoán bệnh nhân nào sẽ mắc bệnh nặng. Những phân tích cuối cùng có thể được sử dụng làm cơ sở hỗ trợ đội ngũ điều trị đưa ra quyết định thử nghiệm các biện pháp điều trị khác, các tác giả cho biết.
Đến nay, kho dữ liệu tài nguyên N3C đang lưu trữ dữ liệu từ 73 tổ chức y tế và hơn 2 triệu hồ sơ của bệnh nhân COVID-19. Có một bộ dữ liệu lớn là vô giá. Hiện có hơn 200 dự án nghiên cứu đang sử dụng dữ liệu từ N3C, bao gồm các nghiên cứu về nguy cơ tái nhiễm COVID-19 và tác động của COVID-19 đối với người trong giai thời kỳ mang thai.
Trong một chia sẻ trên The Verge trước đó, Elaine Hill, một nhà kinh tế sức khỏe tại Đại học Rochester, đang nghiên cứu về ảnh hưởng của COVID-19 đối với người mang thai cho biết “Bộ dư liệu giúp chúng ta có thể làm sáng tỏ những điều mà chúng ta sẽ không thể làm được,”.
Theo Tạp chí Điện tử / The Verge
Tối thiểu 10 chữ Tiếng việt có dấu Không chứa liên kết
Gửi bình luận