Đà Nẵng: Kinh nghiệm xây dựng Chính quyền điện tử, Thành phố thông minh
Hồ Kỳ Minh
Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẵng
- "Xây dựng thành phố thông minh phải gắn liền với chính quyền điện tử"
- VNPT là nhà phát triển chính quyền điện tử và thành phố thông minh ở Lào Cai
- Bắc Ninh: Bước đột phá trong xây dựng thành phố thông minh
- Horizon - Nền tảng kết nối hoàn hảo cho thành phố thông minh
Với sự tư vấn, hỗ trợ của của Ngân hàng Thế giới, vào năm 2014, UBND thành phố Đà Nẵng đã hoàn thành xây dựng Hệ thống thông tin chính quyền điện tử thành phố theo Điều 26 Luật CNTT và theo chuẩn mực chính thức đưa vào sử và Hệ thống được cập nhật, sử dụng thường xuyên cho đến nay.
Kinh nghiệm xây dựng Chính quyền điện tử, Thành phố thông minh. Ảnh: internet
Cũng vào năm 2014, với sự tư vấn của Tập đoàn IBM, Đà Nẵng bắt đầu triển khai thí điểm ứng dụng thông minh cho 05 lĩnh vực: Giao thông, cấp nước, thoát nước, an toàn thực phẩm và thành phố kết nối; sau đó tổng kết, rút kinh nghiệm và vào năm 2018 mới chính triển khai chính thức trên cơ sở Kiến trúc tổng thể xây dựng TPTM, Đề án xây dựng thành phố thông minh đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.
Trong quá trình triển khai, Thành phố Đà Nẵng rút ra một số kinh nghiệm, cách triển khai ở hiện tại và trong thời gian đến như sau:
1. Về mô hình, Hệ thống thông tin Chính quyền điện tử thành phố Đà Nẵng triển khai theo mô hình “tập trung”; các sở, ngành, quận, huyện, phường, xã tham gia sử dụng chung để tiết kiệm tài nguyên, nhân lực, thuận lợi tạo lập và chia sẻ sử dụng, đầu tư nhanh và chi phí thấp.
Trong khi đó, xây dựng và vận hành Thành phố/đô thị thông minh tại Đà Nẵng thiết kế, triển khai theo mô hình “phân tán”; trong đó bước 1 (tạo ra và thu thập dữ liệu), bước 5 (ra quyết định và điều hành) trong Quy trình xử lý dữ liệu do các sở chuyên ngành và địa phương (quận, huyện) thực hiện để nhằm tạo chủ động cho các cơ quan, địa phương trực tiếp xử lý, điều hành. Còn bước 2 đến bước 5 (Kết nối, truyền dẫn dữ liệu -> Lưu trữ dữ liệu -> Phân tích, xử lý dữ liệu) do cơ quan chuyên trách CNTT triển khai, hỗ trợ các cơ quan, địa phương sử dụng chung.
2. Về hạ tầng CNTT phải đi trước một bước; đó là Trung tâm dữ liệu với khả năng tính toán, bảo đảm dịch vụ dữ liệu lớn; Mạng kết nối các cơ quan thành phố và mạng wifi, mạng vô tuyến công cộng rộng khắp, Trung tâm Thông tin dịch vụ, …. công để sẵn sàng triển khai các ứng dụng một cách nhanh chóng.
3. Nhất quán chính sách triển khai: Một Nền tảng- một Chính sách-đa Ứng dụng- đa Đối tác.
- Một nền tảng triển khai tất cả ứng dụng và cơ sở dữ liệu trên một Nền tảng; bảo đảm được tương thích, liên thông, chia sẻ dữ liệu; kế thường được các phân hệ, thư viện dùng chung, giảm chi phí xây dựng và vận hành; đặc biệt người dùng chỉ đăng nhập một lần (SSO) để sử dụng nhiều ứng dụng. Đối với thành phố thông minh, Nền tảng phải bảo đảm phân tích dữ liệu lớn, tạo ra giá trị, hỗ trợ ra quyết định; không phải thu thập thông tin chỉ để “xem” hoăc “giám sát” trên màn hình;
- Một chính sách bao gồm: Bộ tài liệu Kiến trúc chính quyền điện tử, Kiến trúc xây dựng thành phố thông minh, quy chế an toàn thông tin, quy chế chia sẻ dữ liệu, quy chế vận hành cho từng ứng dụng/hệ thống;
- Đa ứng dụng: Bảo đảm cung cấp nhiều dịch vụ, tiện tích cho người dân, doanh nghiệp. Đa ứng dụng với một chính sách, trên một nền tảng bảo đảm tương thích, đồng bộ giữa các ứng dụng với nhau.
- Đa đối tác: Việc triển khai nhiều ứng dụng với một chính sách, trên một nền sẽ tạo môi trường, chính sách “mở” cho nhiều đối tác tham gia xây dựng thành phố thông minh, huy động được nguồn lực xã hội và nâng cao cạnh tranh, chất lượng.
4. Bốn nhân tố, cách triển khai quyết định sự thành công bao gồm: Vai trò đầu tàu, trách nhiệm của “Lãnh đạo”; phải có “Nguồn lực” về tài chính, nhân lực và cả môi trường pháp lý đầy đủ; phải “Liên kết”, phối hợp giữa các cơ quan địa phương, hỗ trợ Bộ ngành, hợp tác của doanh nghiệp và phải thực hiện “Liên tục” để đáp ứng yêu cầu của người dân và phát triển kinh tế- xã hội; không thể có triển khai vài năm rồi công bố hoàn thành xây dựng chính quyền điện tử hoặc thành phố thông minh.
5. Chọn các dự án có ưu tiên cần thiết, có sức lan tỏa và triển khai thí điểm ở phạm vi hẹp, đánh giá và chính thức, nhân rộng.
Từ năm 2014 chúng tôi triển khai thí điểm ứng dụng thông minh cho 05 lĩnh vực: Giao thông, cấp nước, thoát nước, an toàn thực phẩm và thành phố kết nối; rồi mới chính thức triển khai từ năm 2018.
Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 16/4/2019 của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng về phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông tiếp cận xu hướng Cách mạng công nghiệp 4.0; Kiến trúc tổng thể xây dựng TPTM, Đề án xây dựng thành phố thông minh của UBND thành phố đặt ra mục tiêu cụ thể, tại từng mốc thời gian cụ thể đó là: Đến năm 2020: “Sẵn sàng hạ tầng, nền tảng và dữ liệu thông minh”, đến năm 2025: là“Thông minh hóa các ứng dụng” để thực hiện tập trung, đánh giá và đo lường được.
Chúng tôi cũng đưa Đề án xây dựng thành phố thông minh là một trong số các dự án động lực để ưu tiên triển khai, hướng đến mục tiêu phát triển chung của Thành phố theo Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; là đến năm 2030: Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh kết nối đồng bộ với các mạng lưới đô thị thông minh trong nước và khu vực ASEAN.
Theo Tạp chí Điện tử
Tối thiểu 10 chữ Tiếng việt có dấu Không chứa liên kết
Gửi bình luận